Suy tim là một trong những bệnh lý tim mạch thường gặp và nguy hiểm hiện nay.
TS.BS Ngô Tuấn Anh, Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chia sẻ những điều cần biết về suy tim.
Theo ước tính, hiện Việt Nam có khoảng 1,6 triệu người bị suy tim. Đây là một trong những bệnh lý tim mạch thường gặp và nguy hiểm hiện nay. Suy tim làm cho hoạt động bơm máu của tim trở nên khó khăn hơn và người bệnh thường thấy khó thở, mệt mỏi. Theo định nghĩa của Hội Tim mạch Việt Nam, có thể hiểu suy tim là trạng thái hoạt động của tim không đáp ứng với nhu cầu của cơ thể về mặt oxy trong mọi tình huống sinh hoạt của bệnh nhân.
(Ảnh minh họa).
Nguyên nhân suy tim
Tim được chia làm hai phần, bên tim phải (gồm nhĩ phải, thất phải) và tim trái (gồm nhĩ trái, thất trái). Mỗi phần đó có các nguyên nhân khác nhau dẫn đến suy tim.
Nguyên nhân dẫn đến suy tim trái như: Tăng huyết áp động mạch; Bệnh van tim: Hở van 2 lá, hở hoặc hẹp van động mạch chủ đơn thuần hoặc phối hợp; Viêm cơ tim, nhồi máu cơ tim; Rối loạn nhịp tim; Bệnh tim bẩm sinh.
Nguyên nhân dẫn đến suy tim phải, đó là: Bệnh phổi mãn tính (hen phế quản, viêm phế quản mạn, giãn phế nang, giãn phế quản, xơ phổi), nhồi máu phổi, tăng áp lực động mạch phổi tiên phát; Gù vẹo cột sống và dị dạng lồng ngực; Hẹp van 2 lá; Bệnh tim bẩm sinh: Hẹp động mạch phổi, thông liên nhĩ, thông liên thất. Nguyên nhân suy tim toàn bộ: Suy tim trái phát triển thành suy tim toàn bộ; Viêm tim toàn bộ do thấp tim, viêm cơ tim; Bệnh cơ tim giãn.
Nguyên nhân khác: Cường giáp trạng, thiếu vitamin B1, thiếu máu nặng, dò động mạch-tĩnh mạch, do virus hoặc các tác nhân gây nhiễm trùng khác.
Bên cạnh đó, một số yếu tố thúc đẩy khiến tình trạng suy tim trở nặng bao gồm: Chế độ ăn nhiều muối, lạm dụng rượu; Không tuân thủ điều trị: bỏ thuốc, uống không đều, tự ý tăng hoặc giảm liều thuốc; Thiếu máu, tăng huyết áp, mang thai; Dùng thêm các thuốc có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh: chẹn canxi (verapamil, diltiazem), chẹn bêta, kháng viêm không steroid, thuốc chống loạn nhịp (nhóm I, sotalol)…
Biểu hiện suy tim
Người bệnh thường có biểu hiện khó thở khi gắng sức, khó thở phải ngồi dậy để thở và thường kèm theo ho. Hoạt động thể lực bị giảm từ mức độ nhẹ đến nhiều, dễ mệt và yếu sức. Bên cạnh đó sẽ xuất hiện phù hai chân, phù ở mặt hoặc cảm giác nặng mặt. Ngoài ra, người bệnh thường thấy hồi hộp, đánh trống ngực. Giai đoạn nặng, sẽ có gan to, có dịch trong ổ bụng.
Theo Hội Tim mạch New York (NYHA) suy tim thành bốn mức độ:
Độ I: Không hạn chế, vận động thể lực thông thường không gây mệt, khó thở hoặc hồi hộp.
Độ II: Hạn chế nhẹ vận động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, vận động thể lực thông thường (như lên cầu thang) làm mệt, hồi hộp, khó thở hay đau ngực.
Độ III: Hạn chế nhiều vận động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, nhưng vận động thể lực nhẹ cũng làm mệt, hồi hộp, khó thở hay đau ngực.
Độ IV: Mất khả năng vận động thể lực, triệu chứng cơ năng của suy tim xảy ra cả khi nghỉ, vận động dù nhẹ đều làm tăng triệu chứng.
Người bệnh suy tim thường có biểu hiện khó thở khi gắng sức, khó thở phải ngồi dậy để thở.
Bác sĩ khuyến cáo, điều trị suy tim bằng thay đổi lối sống, theo dõi chặt chẽ và sử dụng thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Cần điều trị các nguyên nhân gây ra suy tim như bệnh van tim, nhiễm độc giáp, suy giáp, rối loạn nhịp tim, ức chế cơ tim do thuốc, viêm tim cấp, nhồi máu cơ tim, bệnh màng ngoài tim và phì đại thất do tăng huyết áp. Tùy theo mức độ suy tim, các bác sĩ sẽ lựa chọn các biện pháp điều trị như phẫu thuật sửa van, thay van tim, phẫu thuật cầu nối chủ vành, can thiệp mạch vành… Ghép tim là giải pháp cuối cùng khi tất cả các biện pháp khác không hiệu quả.
Bên cạnh can thiệp y học, người bệnh cần thực hiện một lối sống lành mạnh để cải thiện sức khỏe tim mạch như: ngưng thuốc lá, giảm cân ở người béo; kiểm soát huyết áp, lipid, tiểu đường; ngưng sử dụng rượu. Một lưu ý quan trọng khác đó là hạn chế sử dụng muối (<2g/ngày), nước uống cũng nên sử dụng trong giới hạn hợp lý(< 1,5 L/ngày). Ngoài ra, bệnh nhân cần lựa chọn những môn thể dục nhẹ nhàng, phù hợp, không cần hạn chế vận động.
Các thuốc điều trị suy tim phải được tuân thủ rất chặt chẽ và theo dõi thường xuyên bởi các thầy thuốc chuyên khoa tim mạch, người bệnh tuyệt đối không tự ý thay đổi liều thuốc hay bỏ thuốc tránh những biến chứng cũng như làm tình trạng suy tim nặng hơn.